LIÊN MINH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Tầng 3, Toà 35 Hùng Vương, P. Điện Biên, Q. Ba Đình, TP. Hà Nội.

Mối lo chi phí và giá thành ‘ngáng chân’ xuất khẩu nông sản

16:09 28/08/2025

Tăng chi phí và giá thành vẫn đang là mối lo thường trực, rủi ro luôn hiện hữu sẽ “ngáng chân” các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Điều này có thể thấy rõ ở ngành hàng thủy sản hay đồ gỗ giữa tác động chính sách thuế quan, nếu không có lời giải phù hợp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sức cạnh tranh, nguy cơ mất thị trường.

Trong báo cáo cập nhật tháng 8/2025 với ngành thủy sản, riêng với CTCP thực phẩm Sao Ta (FMC), Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC) lưu ý thuế quan tại thị trường Mỹ vẫn là rủi ro lớn. Ngành tôm nói chung và FMC phải đối mặt với 3 mức thuế quan tại Mỹ là thuế đối ứng, thuế chống bán phá giá (CBPG), và thuế chống lẩn tránh (CVD). 

Rủi ro luôn hiện hữu

Tuy nhiên, rủi ro lớn còn hiện hữu đối với thuế CBPG do FMC đứng trước nguy cơ bị đánh thuế mức 35,29%. FMC chia sẻ đây là mức thuế sơ bộ và chưa được áp dụng chính thức lên doanh nghiệp (DN). FMC tiếp tục theo dõi kết quả chính thức sau khi Bộ Thương mại Mỹ (DOC) cử chuyên gia sang làm việc với DN Việt Nam, và kỳ vọng kết quả cuối cùng được công bố vào tháng 12/2025.

-7005-1756205468.png

Chi phí logistics đang chiếm 20-30% chi phí XK của các DN ngành gỗ.

Không chỉ vậy, mặc dù giá bán và sản lượng năm 2025 khả quan hơn cùng kỳ, thế nhưng một thách thức lớn cho FMC là gánh nặng chi phí tôm nguyên liệu, chi phí bán hàng và quản lý lớn bào mòn lợi nhuận.

Cần nhắc thêm, riêng nửa đầu năm nay, FMC gia tăng đơn hàng theo loại hình DDP (Delivered Duty Paid), khiến giá bán cao hơn nhưng DN phải chi trả thuế nhập khẩu. Hơn nữa, đà tăng của giá bán thấp hơn giá tôm nguyên liệu mua ngoài đã tăng mạnh do tình hình nuôi tôm của Đồng bằng sông Cửu Long kém khả quan.

Ngoài vấn đề của DN nêu trên, bà Tô Thị Tường Lan, Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (Vasep), cho biết có khoảng 23 DN xuất khẩu (XK) tôm lớn sẽ đối mặt với mức thuế rất cao, khiến giá bán vào Mỹ tăng mạnh, mất hoàn toàn khả năng cạnh tranh với các quốc gia khác như Ấn Độ, Ecuador, nơi mức thuế thấp hơn và chi phí sản xuất cạnh tranh hơn.

Như lo lắng của bà Lan, XK tôm Việt Nam sang Mỹ có thể ngừng trệ, thậm chí mất luôn thị trường Mỹ dẫn đến suy giảm doanh thu và suy giảm niềm tin của người nuôi.

Còn theo một chuyên viên phân tích ngành hàng cá tra của Vasep, dự báo thủy sản sẽ gặp khó trong các tháng cuối năm 2025 nếu Mỹ áp thuế đối ứng mới 20%. Trong đó, cá tra sẽ chịu tác động đáng kể về chi phí và giá thành, nhất là khi thị trường Trung Quốc chững lại, buộc DN phải mở rộng XK sang ASEAN, Nam Mỹ và Trung Đông.

Nhìn vào thực tế sẽ thấy hính sách thuế quan mới của Mỹ đang đặt ra “dấu hỏi lớn” đối với XK thủy sản trong các tháng cuối năm nay, trong khi đó có những vấn đề bất cập làm tăng chi phí dẫn tới giảm sức cạnh tranh khi XK vẫn cần được tháo gỡ.

Đơn cử như việc áp dụng ASC (hiện là chứng nhận thủy sản có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế giới) tại Việt Nam được cho là đang có những bất cập nhất định làm chi phí tuân thủ của DN gia tăng và làm giảm động lực duy trì ASC.

Theo bà Trần Hoàng Yến, Phó trưởng Văn phòng đại diện Vasep, có 10 nhóm vướng mắc lớn mà DN thủy sản Việt Nam đang gặp phải khi áp dụng ASC. Đơn cử như quy định mâu thuẫn về sử dụng kháng sinh, bất cập trong hệ thống truy xuất TRACEASC, quy định khoảng cách vùng đệm chưa phù hợp với quy hoạch thực tế, yêu cầu xử lý rác thải vượt quá khả năng của DN, cơ chế đình chỉ và khôi phục chứng nhận thiếu minh bạch, các vấn đề pháp lý đặc thù của Việt Nam…

Và chính những bất cập này dẫn tới việc tăng chi phí của DN, dẫn tới hệ quả rủi ro mất thị trường XK, suy giảm uy tín thương hiệu, thậm chí tác động tiêu cực đến năng lực cạnh tranh quốc tế của cả ngành thủy sản Việt Nam.

Ngoài vấn đề của ngành thủy sản thì việc gia tăng chi phí và giá thành cũng đang là thách thức lớn với các ngành hàng nông sản khác trong quá trình XK. 

Theo đánh giá mới nhất từ Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Mỹ, một trong những thách thức đối với ngành hàng nông sản - sản phẩm trồng trọt là sức ép lớn trong cạnh tranh giá thành và thu hẹp lợi nhuận ròng.

Vẫn chờ lời giải hữu hiệu

Bên cạnh đó là thách thức trong việc bù đắp thiệt hại từ thuế quan, ước tính 200 triệu USD. Không chỉ vậy, DN nhỏ và vừa XK nhiều sang thị trường Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do thiếu khả năng đa dạng hóa thị trường và thiếu đòn bẩy tài chính.

Như với ngành thủy sản, theo Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại Mỹ, thách thức đang nằm ở mức độ gia tăng chi phí sản xuất; chi phí vận chuyển và logistics. Còn với ngành gỗ và sản phẩm gỗ, vấn đề đang nằm ở cạnh tranh giá thành, gia tăng chi phí vận chuyển. Điều này làm giảm đáng kể năng lực cạnh tranh, tác động tới tăng trưởng ngành.

Đối với vấn đề chi phí của ngành gỗ, gần đây ông Nguyễn Chánh Phương, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến Gỗ Tp.HCM (Hawa), đã chỉ rõ chi phí logistics chiếm 20-30% chi phí XK, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các DN trong ngành.

Trong đó, các chi phí chiếm tỷ lệ tương ứng là: Vận chuyển quốc tế (cước tàu biển) chiếm tỷ lệ 40-50%; chi phí vận chuyển nội địa (Domestic Transport Costs) chiếm 10-15%; thủ tục hải quan và giấy tờ chiếm 5-8%; lưu kho và xử lý tại cảng chiếm 5 - 10%; quản lý chuỗi cung ứng và công nghệ chiếm 5-10%; đóng gói và bảo hiểm chiếm 5-7%: rủi ro và chi phí phát sinh chiếm 2-5%.

Mặt khác, như đề xuất của ông Nguyễn Liêm, quyền Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, nên tiếp tục đàm phán về mức thuế đối ứng với Hoa Kỳ. Nhất là khi ngành gỗ nhập nguyên liệu từ Mỹ và sau đó sản xuất rồi bán lại cho Mỹ. 

Ngoài thách thức ở ngành gỗ, ông Trần Văn Công, Tham tán Nông nghiệp tại EU, nhận định một trong những khó khăn cho việc thúc đẩy tăng kim ngạch XK nông sản vào thị trường EU đang nằm ở vấn đề chi phí logistics cao, cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh 30 - 40%. Nhất là khi khoảng cách địa lý xa, tuyển vận chuyển Á- Âu hay xảy ra xung đột dẫn đến bị gián đoạn.

Không những thế, chính sách thuế đối ứng của chính quyền Trump (Mỹ) khiến cho các đối thủ cạnh tranh ở các quốc gia khác tăng cường dịch chuyển nguồn cung nông sản sang thị trường EU. Điều này càng làm tăng áp lực cạnh tranh đối với các DN Việt khi XK nông sản sang EU khi mà họ vẫn đang “gồng gánh” với điểm yếu về chi phí và giá thành.

Như vậy để thấy “bài toán” chi phí, giá thành của các DN xuất khẩu nông sản vẫn chờ lời giải hữu hiệu hơn nữa trong thời gian tới nếu không muốn điều đó làm “ngáng chân” dẫn tới mất thị trường vì yếu thế cạnh tranh về giá cả so với các đối thủ khác. Lẽ đương nhiên, Nhà nước nên hỗ trợ DN thông qua chính sách nhằm kéo giảm phần nào áp lực về chi phí và giá thành trong thời gian tới.

                                                                                 Thế Vinh